`

 

PVLC Chúa Nhật XXXIV Thường Niên
Lễ Chúa Kitô Vua
Lễ Đức Mẹ Dâng Mình 21/11


Bài Ðọc I: Ðn 7, 13-14

"Quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu".

Bài trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5

Ðáp: Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Kh 1, 5-8

"Người là thủ lãnh các vua trần thế: Người đã làm cho chúng ta nên vương quốc".

Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.

Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen.

Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen.

Chúa là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: "Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh".

Ðó là lời Chúa. 

Alleluia: Mt 11, 10

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavít tổ phụ chúng ta đã đến! - Alleluia. 

Phúc Âm: Ga 18, 33b-37

"Quan nói đúng: Tôi là Vua".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" Chúa Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"

Philatô đáp: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này".

Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"

Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm 

sự sống vương giả  

Chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh đã đạt tới tột đỉnh ở Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật Trọng Kính Chúa Giêsu Kitô Vua, thời điểm kết thúc cho bất cứ phụng niên nào, dù là chu kỳ A, B hay C.

Thật vậy, nếu Chúa Kitô "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), (lưu ý Chúa Kitô xưng Người là "sự sống lại" trước và là "sự sống" sau) thì quả thực Người "là sự sống lại" khi Người phục sinh vào ngày thứ ba từ trong kẻ chết. Bởi vì Người chính "là sự sống" bất tử không thể nào bị sự chết làm chủ và tiêu diệt. 

Thế nhưng, cho dù Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô 2 ngàn năm trước đã hoàn toàn thắng được sự dữ nơi thân xác bị giết chết nhưng sống lại của Người, trong một thế giới càng ngày càng văn minh về khoa học và càng văn hóa về nhân bản nhân quyền chưa từng thấy, như giai đoạn lịch sử từ giữa thế kỷ 20 sang đầu hơn một thập kỷ của thiên kỷ thứ 3 hiện nay cho thấy, sự dữ lại càng gia tăng hơn bao giờ hết, như thể con rồng sau một ngàn năm bị xiềng lại, bởi sợi giây xích khổng lồ là quyền lực cứu độ của Thánh Giá Chúa Kitô tử nạn, đã được thả ra trong một thời gian ngắn, như Sách Khải Huyền đã tiết lộ (20:1-3). 

Trong thời gian ngắn vớt vát còn lại này của mình, con rồng đã vận dụng tất cả quyền lực chết chóc độc hại nhất và dữ dội nhất của hắn và từ hắn, để tàn phá cho bằng được công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Giêsu Kitô nơi từng Kitô hữu cũng như nơi chung Giáo Hội, những đối thủ chính yếu của nó và là mục tiêu tấn công quyết liệt của nó, qua hai đạo quân hùng hậu gog và magog, (như ám chỉ trào lưu ồ ạt chủ nghĩa duy nhân bản và tương đối vô cùng lợi hại đang chi phối tâm thức và đời sống của loài người hiện nay), đông như cát biển "đã xâm chiếm toàn cõi xứ sở (ám chỉ thế giới) và công hãm thành đô yêu dấu là nơi dân Chúa cắm trại (ám chỉ Giáo Hội)", như Sách Khải Huyền ghi lại (20:8-9). 

Phải chăng chiến dịch toàn cầu hóa về kinh tế theo chiều hướng chính trị để làm sao có thể dần dần đế quốc hóa tất cả mọi nền văn hóa của các dân nước, cũng như biến đổi hoàn toàn nền luân lý chân chính của lệ luật Thiên Chúa, thành những gì là tự nhiên lăng loàn của bản tính nhiễm lây nguyên tội trên thế giới hiện nay, hình như đang hiện thực hóa mưu đồ lịch sử (conspiracy of history) của hội kín thợ xây trật tự thế giới mới tam điểm, cho vương quốc của satan trị đến trong lòng người và lịch sử?! 

Phải, cho tới khi con rồng đã tung ra tất cả quyền lực độc dữ nhất của nó thì cũng chính là lúc sự dữ hết thời, và hoàn toàn bị tận diệt bởi chính Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), khi Người "là sự sống" vĩnh hằng bất tận tái xuất hiện trong vinh quang với tư cách là Thẩm Phán Chí Tôn "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", Đấng được Tiên Tri Đaniên trong Bài Đọc 1 hôm nay báo trước vương quyền thống trị bất diệt của Người:

"Trong một thị kiến ban đêm (theo người viết thời điểm "ban đêm" ở đây ám chỉ tình hình nhân gian và Giáo Hội trước khi Chúa Kitô tái giáng), tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão ("Vị Bô Lão" ở đây theo người viết có thể ám chỉ Chúa Cha), và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy".

Thị kiến của Tiên Tri Đaniên về Con Người lãnh nhận vương quyền thống trị đến muôn đời tất cả loài người là loài tạo vật được Người cứu chuộc, đã được phụ họa và âm vang trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. 

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa. 

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. 

Đúng thế, sự kiện Chúa Kitô "là sự sống" bất diệt và bất tận xuất hiện lần thứ hai không phải chỉ để tận diệt sự dữ, mà trước hết và trên hết là để tỏ hết mình ra trên thế gian này, như thể tạo vật được Thiên Chúa dựng nên đã đến thời viên mãn của mình nơi Người, nhờ Người và với Người. Bấy giờ, khi Người tái xuất hiện, Người tỏ mình ta với tư cách là một Vị Con Thiên Chúa hằng sống bất diệt, qua nhân tính hiển linh cùng với thân xác phục sinh của Người, và như thế, Người như ánh sáng sự sống cuối cùng xua tan bóng tối sự dữ cho đến muôn đời, hoàn toàn không bao giờ còn sự dữ nữa, như Sách Khải Huyền tiên bào về một Tân Thành Thánh Giêrusalem "không còn đêm" (22:5), vì "trời trước và đất trước đã qua đi" (21:1). 

Chiều hướng trên đây về lần đến cuối cùng đầy vinh quang rạng ngời vinh thắng của Chúa Kitô "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16; Gioan 11:27), Đấng cuối cùng đã tỏ mình ra hoàn toàn đúng với phẩm chức thần linh và quyền năng tối cao của Người, được Sách Khải Huyền tiên báo nơi Bài Đọc 2 hôm nay như thế này: 

"Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen. Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen. Chúa là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: 'Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh'".

Trong cuộc khổ nạn của mình, Chúa Kitô sẽ Tái Giáng vinh quang, vào lúc ấy, trước hết, mới chỉ tỏ mình ra như là một con người bị lép vế trước quyền bính thế gian, bị quyền lực thế gian bắt giữ và bị hành hạ cùng sát hại như một tên đại tử tội hoàn toàn bất lực và vô cùng nhục nhã. 

Thế nhưng, sự dữ và quyền lực sự dữ vẫn không làm gì được Người, Đấng "là sự sống", Đấng "tự ý bỏ mạng sống mình đi rồi có quyền lấy lại mạng sống của mình" (Gioan 10:18). Trái lại, Người đã thắng được sự dữ nơi sự chết bị Người tiêu diệt bởi "sự sống lại" của Người hay bởi Người "là sự sống lại". Thậm chí nhờ sự dữ Người phải chịu cả trong tâm hồn lẫn thể xác mà Người đã cứu được con người, trước hết và trên hết, khỏi sự dữ về luân lý là tội lỗi của họ, nhờ đó họ khỏi bị chết đời đời là sự dữ trên hết mọi sự dữ. 

Người quả thực là vua cai trị mọi sự, dù trải qua cuộc khổ nạn và tử giá. Do đó, không phải tự nhiên mà viên tổng trấn dân ngoại tự nhiên có linh cảm Người là một nhân vật đặc biệt, mang phong cách oai nghi vương giả, chứ không phải là một nhân vật tầm thường mà ông đã từng gặp, qua câu hỏi"ngài từ đâu tới" (Gioan 19:9), dù theo nhân vật cầm quyền sinh tử của Người bấy giờ thì Người chỉ là "Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38) chư hầu của đế quốc Rôma.

Tuy nhiên, theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc thay cho Phúc Âm Thánh ký Marco Chu Kỳ Năm B này, Chúa Kitô đã tự đính chính bằng câu trả lời rất chính xác cho vấn đề được Viên Tổng Trấn Philato ấy đặt ra hỏi Người "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" rằng: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này". Nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô là vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc tối cao của lòng người, và bất diệt vượt trên mọi vương quốc hữu hạn trên trần gian này. 

Thật ra, tự mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã là vua, nhưng nơi nhân tính của mình, Người cần phải chứng thực hay tỏ mình ra Người thực sự bẩm sinh là vua, (như khi mới sinh ra Người đã được 3 vương chiêm tinh gia đến bái thờ - Mathêu 2:1-12), một đức vua trên hết mọi vua chúa trên trần gian này, một đức vua muôn đời, đúng như Người đã trả lời cho câu chất vấn của Tổng Trấn Philatô: "Vậy ông là Vua ư?": "Chính quan là người đã nói tôi là vua - It is you who say I am a king. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".

Trong câu khẳng định có tính cách gián tiếp này của Chúa Kitô Vua, Người không tự mình xưng là vua, và không bao giờ Người tự xưng mình như thế, vì đụng đến chính trị, tức đụng đến chính quyền đế quốc Rôma cũng như đến quận vương Hêrôđê ở Galilêa, cũng như Người đã không bao giờ tự xưng Người là Đấng Thiên Sai - Messiah, vì Người tránh đụng đến giáo quyền Do Thái, mà chỉ công nhận qua việc đáp ứng của Người mà thôi, như Người đã công nhận lời của phụ nữ Samaritanô ở Giếng Giacóp về tư cách của Người (xem Gioan 4:25-26), hay như Người đã công nhận lời truyền lệnh của giáo quyền Do Thái giáo hỏi Người xem Người có phải là Đấng Thiên Sai hay chăng (xem Mathêu 26:63-64): "Chính ngài là người nói thế... It is you who say it".

Cũng trong câu khẳng định gián tiếp với viên quan tổng trấn Philatô ấy, Chúa Kitô còn liên kết vai trò làm vua của Người với chân lý nữa: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi". Nếu Chúa Kitô chính "là chân lý" (Gioan 14:6) thì Người "sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về" chính bản thân Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), ai tin Người hay "chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12). Đó là lý do "Nước tôi không thuộc về thế gian này" mà một vương quốc của "sự sống", sự sống đời đời, vĩnh viễn tồn tại như chính "Chân Lý" bất biến.

Sự kiện vấn đáp giữa tổng trấn Philatô với Chúa Kitô không phải chỉ đơn giản bề ngoài như là một cuộc đối thoại giữa hai người ngang nhau, mà là một cuộc tra vấn của nhân vật có thẩm quyết xét xử trước khi lên án và xử tội, với một tội phạm bất ngờ được trao nộp cho ông. Bởi thế, ngay câu tra vấn đầu tiên được vị tổng trấn này đặt ra là một câu tra vấn mà tội phạm lên tiếng công nhận một cái là bị lên án liền lập tức: "Ngươi có phải là vua không?".

Tuy nhiên, vì quá thấu biết cả tấm lòng đầy thiện chí lẫn vai trò cần phải thẩm xét một nhân vật bị dân Người coi là phạm nhân, Chúa Kitô đã khôn khéo trả lời, vừa để tránh cái bẫy điều tra của vị tổng trấn dân ngoại vừa để dẫn chính con người ấy về với chân lý là bản thân mình: "Ông tự ý hỏi như thế hay đã có ai nói về Tôi với ông?". Viên tổng trấn Philatô này cũng không vừa, chẳng những không để cho Chúa Kitô đánh lạc hướng, mà còn trở đòn một cách ngoạn mục, bằng cách bồi thêm một câu tra vấn thứ hai, hết sức mật thiết với câu tra vấn thứ nhất: "Nhân dân của ngươi đã trao nộp ngươi cho ta. Ngươi đã làm gì?"

Căn cứ vào hai câu tra vấn: "Người có phải là vua không?" và "Người đã làm gì?" của vị tống trấn hạch hỏi Chúa Kitô, thì hình như ông ta đang muốn điều tra xem nhân vật bị coi là tội phạm được trao nộp cho ông ta bấy giờ có làm chính trị hay chăng? - Chẳng hạn có âm mưu hay hành động làm loạn chống lại thẩm quyền đương nhiệm bấy giờ là quận vương Hêrôđê đang ở Giêrusalem (xem Luca 23:7), ngay lúc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách vinh quang chưa từng thấy, huy hoàng như một quân vương.

Trong bài huấn từ truyền tin Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua 25/11/2018, khi bài chia sẻ này đã đưoọc gửi đi từ tối Thứ Sáu 23/11/2018, thì người viết đọc thấy chiều kích suy diễn của mình cũng cùng chiều hướng chính trị với ĐTC Phanxicô: "Người đã đứng trước vị Tổng Trấn Roma, như một tên muốn chống lại quyền lực chính trị, muốn trở thành Vua của Người Do Thái. Vậy Philatô đã thực hiện cuộc điều tra, và bằng một thứ chất vấn bi thảm, ông hai lần hỏi Người rằng 'Ngươi là vua phải không?'"

Nếu quả thực Chúa Kitô làm chính trị thì mới thuộc lãnh vực thực sự liên quan đến thẩm quyền xét xử của ông, bằng không, sau khi đã cẩn thận tra vấn, chính ông đã thấy rõ, thậm chí đã dựa vào thẩm quyền của cả quận vương Hêrôđê cũng chẳng lên án Người, mà tuyên bố Người vô tội không đáng chết (xem Luca 23:14-15), một quyết định đã khiến cho "toàn thể đám đông" (Luca 23:18), bao gồm cả thành phần đầu mục Do Thái lẫn dân chúng bị thành phần đầu mục này xui xiểm (xem Mathêu 27:20), bấy giờ tự ý quay ra muốn vị tổng trấn thả tên trộm cướp Baraba thay vì thả Chúa Kitô, dựa vào thông lệ được vị tổng trấn ân xá vào ngày lễ trọng của dân Do Thái (xem Mathêu 27:15). Nhưng ông lại chỉ muốn thả Chúa Giêsu, vì theo lương tâm và thẩm quyền của mình, ông vẫn thấy Người vô tội, đáng thả hơn là tên ma đầu Barbara, nhưng dân chúng lại làm mạnh hơn, đòi "đóng đanh nó vào thập giá" (Luca 23:21).

Người quả thực là "một người quí tộc kia đi phương xa để được phong vương" như Người đã tiên báo cho các môn đệ và đám đông đi theo Người trong cuộc hành trình Giêrusalem của Người, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên tuần trước (19:12). Theo bài Phúc Âm này, cho dù dân Do Thái của Người không chấp nhận Người là vua của họ (xem Luca 19:14, Gioan 19:15,20-22), nhưng họ chẳng những vẫn không làm gì được Người mà còn bất ngờ làm cho Người trở thành vua của toàn thể nhân loại nữa: "Người đã được phong vương trở về" (Luca 19:15), theo chiều hướng của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật cuối cùng của Phụng Niên trọng kính Chúa Kitô Vua. 

Tóm lại, ý nghĩa của Lễ Chúa Vua được Giáo Hội cố ý đặt vào Chúa Nhật cuối cùng của mỗi phụng niên là ở chỗ: Người là Đấng chẳng những có toàn quyền năng (all powerful) có thể giải thoát con người (kể cả các vua chúa và đế vương trong lịch sử loài người) khỏi tội lỗi và sự chết, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho năm C cho thấy, liên quan đến phần rỗi của người trộm lành, mà còn có cả tối thẩm quyền (supreme/ultimate authority) để phán xét và thưởng phạt nhân loại (kể cả các vua chúa và đế vương trong lịch sử loài người), như bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Năm A cho thấy, liên quan đến biến cố chung thẩm.

Quyền năng cứu độ và thẩm quyền phán xét này nơi Chúa Kitô là ở chỗ Người chính "là chân lý" (Gioan 16:4), Đấng "được sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho chân lý", như bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan Năm B hôm nay cho thấy, một Chân Lý như "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) "chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5) và xua tan bóng tối tội lỗi và sự chết nơi loài người, một ánh sáng sự sống hoàn toàn được sáng tỏ khi Người tái giáng trong vinh quang như một thẩm quyền tối thượng "để phán xét kẻ sống và kẻ chết".

Là Kitô hữu, chúng ta, qua Phép Rửa, đã được thông phần vào thiên chức vương đế, ngôn sứ và tư tế của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta đã sống thế nào với thiên chức vương đế bởi chúng là là con Thiên Chúa này của mình: chúng ta có làm chủ mọi sự hay chăng với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa, hay vẫn sống đời nô lệ cho tội lỗi, cho thần dữ, cho thế gian, xác thịt?


Đang khi tôi chia sẻ gợi ý gần xong về bài Phúc Âm của Thánh Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua Năm B, với nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương ở Giáo Phận Orange vào chiều Thứ Sáu ngày 23/11/2018, thì có chị đặt vấn đề, ngay ở chỗ chị nghe tôi nói rằng Chúa Kitô đến làm chứng cho chân lý bằng việc cho thấy Người không làm theo ý riêng mình mà là theo ý Đấng đã sai Người (xem Gioan 6:38), để chứng thực Người là Đấng Thiên Sai, nên ở trên Đồi Canve, chứng kiến thấy Người chết, một viên đại đội trưởng Roma bấy giờ đã tin nhận "Người này là Con Thiên Chúa" (Mathêu 57:42), và một số người bấy giờ cũng nhận biết Người (xem Luca 23:48). Vấn đề của chị đặt ra như sau: 
Tại sao Chúa Giêsu sống ở thế gian và đã tỏ mình ra hết cỡ mà chỉ lôi kéo một số ít người thôi, trong khi các thánh tông đồ sau đó đã làm cho người ta trở lại 3000 người đợt nhất và 5000 người đợt hai? 

Câu trả lời của tôi bấy giờ như thế này:
 Các tông đồ quả thực đã làm cho 3 ngàn người trở lại nhơ bài giảng đầu tiên sau biến cố Thánh Thần Hiện Xuống (xem Tông Vụ 2:41), và 5 ngàn người trở lại nhờ bài giảng thứ hai sau phép lạ người què ở Cửa Đẹp được bất ngờ chữa lành (xem Tông Vụ 4:4). Việc các ngài làm cho người ta trở về nhiều hơn cả chính Chúa Kitô nữa quả thực đã ứng nghiệm lời Người đã tiên báo trong Bữa Tiệc Ly là: "Kẻ nào tin vào Thày sẽ làm được các việc Thày đã làm, mà còn lớn lao hơn cả những việc ấy nữa. Tại sao? Vì Thày về cùng Cha" (Gioan 14:12). 

Đúng thế, các môn đệ của Chúa Kitô có làm được gì thì cũng nhờ bởi Chúa Kitô ở trong họ, vì trái nho chỉ trổ sinh ở cành nho chứ không phải ở thân nho thế nào thì "Thày là cây nho, các con là cành" (Gioan 15:1) cũng thế. Các tông đồ của Người là cành nho sinh hoa trái là phải. Thế nhưng cành nho chỉ sinh hoa trái khi còn kết hợp với thân nho là Chúa Kitô. Nghĩa là Chúa Kitô vẫn tiếp tục tỏ mình ra, không phải qua nhân tính của Người như khi Ngưòi còn sống, mà là qua nhiệm thể Giáo Hội của Người. 

Vậy người ta nhận biết chân lý là Chúa Kitô, chứ không phải nhận biết các chứng nhân của Người, nói cách khác, là nhận biết Người, qua chứng từ của Giáo Hội nói chung và từng phần tử Kitô hữu nói riêng, mà trở về với Chúa Kitô, chứ không phải với Giáo Hội, nói cách khác, là trở về với Người nhờ Giáo Hội và trong Giáo Hội của Người. Như thế là Chúa Kitô vẫn tiếp tục tỏ mình ra qua Giáo Hội, và càng ngày càng làm cho nhân loại nhận biết Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis duy nhất của họ. Bởi thế, không phải là các tông đồ làm cho người ta trở lại nhiều hơn Chúa Kitô, mà chính Chúa Kitô, qua các vị, làm cho người ta trở lại càng ngày càng nhiều, cho tới khi Người lại đến trong vinh quang, "để phán xét kẻ sống và kẻ chết". 

Sau vấn nạn của người chị em ấy thì lại có một ngưoòi anh đặt thêm vấn đề do giới trẻ đặt ra cho anh liên quan đến Chúa Kitô Vua mà anh đã không biết phải trả lời thế nào, như sau:

Tại sao ngày nay trên thế giới không còn chế độ vua chúa nữa, thế mà tại sao Giáo Hội Công giáo vẫn tiếp tục tôn vinh Chúa Kitô là Vua?  

Tôi đã giải đáp như thế này: Căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu nói với tổng trấn Philato trong bài Phúc Âm Thánh Gioan cho chu kỳ phụng vụ Năm B thì "nước của Tôi không thuộc về thế gian này" (Gioan 18:36), tức là nước của Chúa Kitô hay vương quốc được Chúa Kitô thiết lập trên thế gian này không thuộc về hạ giới, có tính cách trần thế nói chung và chính trị nói riêng. Trái lại, nước của Người thuộc về thượng giới, thuộc lãnh vực siêu nhiên, lãnh vực thần linh, như chính Chúa Kitô đã xác định với vị tổng trấn dân ngoại thuộc đế quốc Roma này: "Tôi được sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho chân lý. Ai tìm kiếm chân lý thì sẽ nghe thấy tiếng của Tôi". (Gioan 18:37)

Đúng thế, nếu chỉ có duy chân lý mới có mãnh lực giải phóng con người (xem Gioan 8:32) khỏi tội lỗi (về phần hồn) và sự chết (về phần xác, nhất là cái chết về phần hồn). Trong khi không có một vua chúa hay hoàng đế nào trong lịch sử của loài người trên trần gian này có thể không phạm tội và không chết, cho dù họ có muốn bất tử tự họ cũng không thể nào cứu họ, giải thoát chính bản thân họ khỏi tội lỗi và sự chết. Thế mà một mình Chúa Kitô đã làm được điều này, cho toàn thể nhân loại. Vì chính Ngài là Chân Lý. Bởi vậy, Kitô hữu không thể nào không tiếp tục và liên tục suy tôn và muôn đời chúc tụng Chúa Kitô là Vua, nghĩa là họ tôn vinh và chúc tụng Người là vị cứu tinh duy nhất của nhân loại (xem Tông Vụ 4:12). Thế thôi.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên
 

MTN.CNXXXIV-B.mp3 

 https://youtu.be/abDd80v3kU4 

 

Ngày 21 tháng 11

Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ.

(Lễ nhớ) 


 

Khi ấy, Đức Giê-su còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người bảo kẻ ấy rằng : “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” 49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói : “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” 

Theo truyền thống Do Thái, người ta thường dâng con trẻ vào đền thờ để được thánh hiến và sau đó con trẻ sẽ ở trong đền thờ một thời gian giúp việc các vị chủ tế... Phúc Âm không đề cập đến thời thơ ấu của Ðức Trinh Nữ Maria. Nhưng theo Thánh Truyền thì Ðức Mẹ cũng đã thi hành tập tục nói trên. Tại đền thánh Giêrusalem, ngài đã thực hành biết bao hy sinh với một tâm hồn quảng đại.

Mười hai năm suy gẫm và cầu nguyện, chính là thời gian chuẩn bị cho chức vụ Mẹ Thiên Chúa. Theo thánh Hiêronimô, chương trình ngày sống của Ðức Mẹ trong đền thờ được phác họa như sau: Từ hừng đông đến 9 giờ sáng, Ngài cầu nguyện; từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, Ngài làm việc chân tay và sau đó ngài lại cầu nguyện, sốt sắng suy gẫm Thánh Kinh và siêng năng đọc Thánh Vịnh.

Ngày lễ Mẹ dâng mình như bước đầu dẫn tới Ðức Khiết Tịnh Kitô giáo. Sau Ngài, biết bao trinh nữ đã tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa. Vì thế Mẹ Maria thực là gương mẫu bất diệt, là Ðấng bảo trợ nhiệt thành và là Ðấng hướng dẫn chắc chắn trên đường nhân đức vậy.

 =

Đức Mẹ đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ thai

Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.(sermo 25, 7-8; PL 46, 937-938. Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh cho Giờ Kinh Sách ngày Lễ Mẹ Dâng Mình 21/11)

Tôi xin anh em hãy để ý xem Chúa nói gì khi Người giơ tay chỉ các môn đệ : Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã không thi hành ý muốn của Chúa Cha sao ? Người là đấng đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ thai ; Người được chọn để nhờ Người, Đấng cứu độ chúng ta ra đời ; Người được Đức Ki-tô tạo thành trước khi Đức Ki-tô được tạo thành nơi Người. Đức Ma-ri-a đã thi hành, hoàn toàn thi hành ý Chúa Cha ; vì thế, đối với Người, làm môn đệ của Đức Ki-tô thì quan trọng hơn là làm Mẹ của Đức Ki-tô. Mẹ càng sung sướng vì được làm môn đệ của Đức Ki-tô hơn là vì được làm Mẹ của Đức Ki-tô. Vậy, Đức Ma-ri-a được hạnh phúc vì đã cưu mang Thầy trước khi sinh ra Thầy.

Bạn hãy xem tôi nói có đúng không. Khi Chúa cùng đi đường với đám đông và làm phép lạ thì một bà nói : Sung sướng thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Nhưng, để người ta đừng tìm sung sướng theo lẽ tự nhiên, thì Chúa đã trả lời ra sao ? Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Do đó, Đức Ma-ri-a diễm phúc vì đã nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa ; Người gìn giữ sự thật trong tâm trí hơn là cưu mang xác phàm trong lòng. Đức Ki-tô là sự thật, Đức Ki-tô là xác phàm : là sự thật, Đức Ki-tô ở trong tâm trí Đức Ma-ri-a ; là xác phàm, Đức Ki-tô ở trong lòng Đức Ma-ri-a. Việc Đức Ki-tô ở trong tâm trí Mẹ thì quan trọng hơn việc Người ở trong lòng Mẹ.

Đức Ma-ri-a thánh thiện, Đức Ma-ri-a diễm phúc, nhưng Hội Thánh còn hơn Đức Ma-ri-a. Vì sao ? Thưa vì Đức Ma-ri-a là một thành phần của Hội Thánh, là một chi thể thánh, chi thể cao trọng, chi thể tuyệt vời, nhưng vẫn là một chi thể của toàn thân. Nếu Người thuộc về toàn thân, thì chắc chắn thân mình phải hơn một chi thể. Đầu của thân thể là Chúa nhưng Đức Ki-tô toàn thể gồm đầu và thân mình. Tôi phải nói gì đây ? Chúng ta có vị thần linh là đầu, chúng ta có Thiên Chúa là đầu.

Vậy, anh em thân mến, xin anh em để ý : anh em vừa là chi thể của Đức Ki-tô, vừa là thân mình Đức Ki-tô. Hãy để ý xem anh em là thế nào mà Chúa lại nói : Đây là mẹ tôi, là anh em tôi. Anh em là mẹ Đức Ki-tô thế nào ? Thưa : Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. Tin tôi đi, tôi hiểu thế nào là anh em, là chị em của Đức Ki-tô : bởi vì chỉ có một gia sản, do đó, vì lòng thương xót, Đức Ki-tô, tuy là Con Một, đã không muốn chỉ mình được hưởng, nhưng muốn chúng ta được làm kẻ thừa tự của Chúa Cha và đồng thừa tự với Đức Ki-tô.

 

Bài 29– 7/8/1996: Việc chọn lựa của Mẹ Maria tác động đức đồng trinh dâng hiến 

(Bài Giáo Lý Thánh Mẫu của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II) 

1- Ý muốn giữ sống đời của một trinh nữ, được hiển nhiên nơi những lời của Mẹ Maria trong giây phút Truyền Tin, theo truyền thống đã được coi là khởi điểm và là khởi động cho đức đồng trinh Kitô giáo trong Giáo Hội. 

Thánh Âu Quốc Tinh không thấy nơi quyết định này việc hoàn tất của một chỉ thị thần linh mà là một lời khấn tự do chọn lựa. Như thế việc chọn lựa này mới có thể cho thấy Mẹ Maria là một mẫu gương cho “các kẻ đồng trinh” suốt giòng lịch sử của Giáo Hội. Mẹ Maria “đã hiến dâng đức đồng trinh của mình cho Thiên Chúa khi Mẹ chưa biết Đấng Mẹ sẽ thụ thai, nhờ đó hình ảnh của đời sống thiên đình trong một thân xác trần gian chết chóc được thực hiện bằng một lời khấn chứ không phải bằng một chỉ thị, nhờ việc chọn lựa yêu thương chứ không phải bởi nhu cầu phục vụ” (De Sancta Virg., IV, PL 40:398). 

Vị Thiên Thần không yêu cầu Mẹ Maria sống đời trinh nữ; chính Mẹ Maria tự ý tỏ ra ý hướng muốn giữ mình đồng trinh của Mẹ. Việc chọn lựa yêu thương dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn hiến mình cho Chúa bằng một cuộc sống đồng trinh được tỏ hiện nơi sự dấn thân này. 

Khi nhấn mạnh đến tính chất tự động nơi quyết định của Mẹ Maria, chúng ta không được quên rằng nguồn mạch của hết mọi ơn gọi đều do Thiên Chúa khởi động. Bằng việc chọn sống đời đồng trinh, người thiếu nữ thành Nazarét đáp ứng một tiếng gọi nội tâm, tức là đáp ứng tác động của Thánh Linh đã soi sáng cho Mẹ biết về ý nghĩa và giá trị của tặng ân đồng trinh nơi bản thân của Mẹ. Không ai có thể chấp nhận tặng ân này mà lại không cảm thấy được kêu gọi hay không lãnh nhận từ Thánh Linh ánh sáng và sức mạnh cần thiết. 

Mẹ Maria đã mạnh mẽ quyết định sống đồng trinh 

2- Mặc dù Thánh Âu Quốc Tinh sử dụng chữ “khấn hứa” để tỏ cho những ai ngài gọi là “các trinh nữ thánh” mẫu gương đầu tiên cho bậc sống của họ, Phúc Âm không chứng thực rằng Mẹ Maria đã minh nhiên thực hiện lời khấn này, một hình thức tận hiến và dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa là hình thức đã từng được thực hiện từ các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội.

Theo Phúc Âm chúng ta thấy rằng Mẹ Maria đã thực hiện một quyết định cá nhân muốn sống đời trinh nữ, dâng hiến tấm lòng của Mẹ cho Chúa. Mẹ muốn trở thành một hôn thê trung thành của Ngài, hoàn trọn ơn gọi của Mẹ như một “nữ tử Sion”. Tuy nhiên, bởi quyết định của mình, Mẹ trở nên mẫu thức cho tâá cả những ai trong Giáo Hội muốn chọn việc dấn thân phục vụ Chúa bằng một tấm lòng không chia sẻ nơi đức đồng trinh. 

Không có một cuốn Phúc Âm nào hay bất cứ một bản văn Tân Ước nào nói với chúng ta về thời điểm Mẹ Maria đã quyết định sống đời trinh nữ. Tuy nhiên, câu Mẹ hỏi vị thiên thần vào lúc Truyền Tin đã thật hiển nhiên cho thấy rằng Mẹ đã thực hiện một quyết định rất mạnh mẽ. Mẹ Maria không ngần ngại bày tỏ lòng ước mong của Mẹ muốn giữ đức đồng trinh này của mình ngay cả trước vai trò làm mẹ được bày tỏ với Mẹ, cho thấy rằng ý nguyện của Mẹ đã chín mùi từ lâu. 

Thật vậy, việc Mẹ Maria chọn sống trinh nguyên không được thực hiện trước một viễn ảnh không thể biết được về việc trở nên Mẹ của Thiên Chúa, thế nhưng đã được phát triển trong ý thức của Mẹ trước biến cố Truyền Tin. Chúng ta có thể cho rằng khuynh hướng này bao giờ cũng hiện hữu trong long của Mẹ: ân sủng đã sửa soạn cho Mẹ trở thành một trinh mẫu chắc chắn đã tác dụng đến toàn thể cuộc phát triển về con người của Mẹ, trong khi đó Thánh Linh không thôi tác động nơi Mẹ, từ những năm ấu thơ nhất của Mẹ, ước muốn được hoàn toàn nên một với Thiên Chúa. 

3- Những việc kỳ diệu ngày nay vẫn được Thiên Chúa thực hiện trong tâm hồn và đời sống của rất nhiều giới trẻ trước hết đã được hiện thực nơi linh hồn của Mẹ Maria. Ngay cả trong thế giới của chúng ta đây, một thế giới bị phân tâm rất nhiều bởi những thứ thu hút của một nền văn hóa thường nông nổi hời hợt và hưởng thụ, vẫn có nhiều thanh thiếu niên chấp nhận lời mời gọi xuất phát từ gương của Mẹ Maria để tận hiến tuổi trẻ của mình cho Chúa cũng như cho việc phục vụ anh chị em của mình. 

Quyết định này là sự chọn lựa những giá trị cao cả hơn, hơn là việc từ bỏ những giá trị về nhân bản. Về vấn đề này, trong Tông Huấn Marialis Cultus của mình, vị tiền nhiệm khả kính Phaolô VI nhấn mạnh là bất cứ ai nhìn vào chứng từ của Phúc Âm với một tâm trí cởi mở “sẽ cảm nhận rằng việc chọn lựa của Mẹ Maria về tình trạng đồng trinh… không phải là một thứ loại trừ bất cứ những giá trị của bậc sống hôn nhân mà là một chọn lựa can đảm được Mẹ thực hiện để tận hiến bản thân mình trọn vẹn cho tình yêu của Thiên Chúa” (số 37) ra sao. 

Tóm lại, việc chọn sống đời đồng trinh được tác động bởi lòng gắn bó trọn vẹn với Chúa Kitô. Điều này đặc biệt hiển nhiên nơi Mẹ Maria. Mạc dù trước biến cố Truyền Tin, Mẹ không nhận thức về nó, nhưng Thánh Linh đã tác động Mẹ việc tận hiến trinh nguyên liên quan đến Chúa Kitô: Mẹ vẫn là một trinh nữ để tiếp nhận Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Thế bằng tất cả con người của Mẹ. Đức đồng trinh đã bắt đầu nơi Mẹ Maria như thế cho thấy chiều kích tập trung vào Chúa Kitô của nó, thiết yếu cho cả đức đồng trinh được thực hành trong Giáo Hội, một đức đồng trinh mô phỏng theo gương mẫu cao cả nơi Người Mẹ của Chúa Kitô. Nếu đức đồng trinh nơi bản thân của Mẹ, được liên kết với vai trò làm mẹ thần linh, vẫn là một sự kiện phi thường, thì nó cống hiến ánh sáng và ý nghĩa cho hết mọi tặng ân trinh nguyên.

Đức đồng trinh tận hiến là nguồn mạch của việc sinh hoa kết trái thiêng liêng 

4-  Biết bao nhiêu là nữ nhân trẻ trung trong lịch sử Giáo Hội, khi chiêm ngưỡng thấy tính chất cao cả và mỹ lệ nơi tâm hồn trinh nguyên của Mẹ Chúa Kitô, đã cảm thấy phấn khởi trong việc quảng đại đáp ứng tiếng gọi của Thiên Chúa bằng cách theo đuổi lý tưởng sống đồng trinh! “Như tôi đã nhắc đến trong Thông Điệp Redemptoris Mater – Mẹ Đấng Cứu Chuộc, “Chính đức đồng trinh này, theo gương của Vị Trinh Nữ Nazarét, là nguồn mạch của sự phong phú thiêng liêng đặc biệt: nó là nguồn mạch của vai trò làm mẹ trong Thánh Linh” (số 43). 

Đời sống trinh nguyên của Mẹ Maria đã tác động nơi toàn thể dân Kitô hữu niềm trân trọng tặng ân đồng trinh và niềm ước muốn là nó cần phải gia tăng trong Giáo Hội như là một dấu hiệu thượng quyền của Thiên Chúa trên tất cả mọi thực tại và như là một thứ ngưỡng vọng tiên báo về một đời sống mai hậu. Cùng nhau, chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho những ai ngày nay vẫn còn quảng đại hiến đời mình sống đồng trinh để phụng sự vương quốc của Thiên Chúa. 

Đồng thời, trong khi ở các miền khác nhau được phúc âm hóa lâu đời chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa hưởng thụ dường như trở thành những rào cản cho nhiều giới trẻ trong việc theo đuổi đời sống tận hiến, chúng ta cần phải gia tăng nguyện xin Thiên Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, cho một cuộc triển nở mới về ơn gọi tu trì. Nhờ đó, dung nhan của Người Mẹ Chúa Kitô, được phản ảnh nơi nhiều trinh nữ đang nỗ lực theo Vị Thày thần linh, sẽ tiếp tục trở thành dấu hiệu cho tình thương và lòng âu yếm của Thiên Chúa đối với nhân loại.  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 21/8/1996, trang 7. 

LeMeDangMinh.mp3 / LeMeDangMinhVaoDenThanh.mp3 

 https://youtu.be/f5di9CYZ2bA